Ở thị trấn Gia Lộc, có một vị tướng thời Trần mà mỗi lần nhắc tên, người dân đều tỏ lòng tôn kính. Đó là tướng quân Nguyễn Chế Nghĩa. Những câu chuyện về ông không chỉ được lưu truyền trong dân gian mà còn ghi chép lại trong nhiều tài liệu, văn bản quan trọng như "Trần triều thế phả hành trạng", "Hội Xuyên xã thần tích"...
Nguyễn Chế Nghĩa sinh năm 1265 tại Cối Xuyên (còn gọi Hội Xuyên, nay là thị trấn Gia Lộc). Từ nhỏ ông đã nổi tiếng văn võ toàn tài, thông thạo võ nghệ, đặc biệt là đánh gậy. Năm Thiệu Bảo thứ 6 (1284), quân Nguyên xâm lược nước ta lần thứ hai, Nguyễn Chế Nghĩa 17 tuổi đến dinh của Trần Hưng Đạo xin đầu quân. Hưng Đạo thử tài thấy Nguyễn Chế Nghĩa bắn cung giỏi phong là "thần tiễn" và khen: “Người này chẳng kém gì Phạm Ngũ Lão, ta lại được thêm một tướng tài". Ông được Hưng Đạo Vương sai đem dân binh của Lộ Hồng đi chặn giặc ở Nội Bàng, Vạn Kiếp, làm cho chúng phải tiến quân chậm chạp.
Năm 19 tuổi, Nguyễn Chế Nghĩa đeo ấn tiên phong cùng tướng Phạm Ngũ Lão đem 3.000 quân lên Lạng Sơn lập trại cản địch. Trận đầu ông cầm quân đánh lui các tướng giặc là Trịnh Bằng Phi và Áo Lỗ Xích. Nguyễn Chế Nghĩa xông vào quân giặc như vào chốn không người khiến chúng khiếp sợ gọi ông là thần tướng, được nhà vua phong làm Khống bắc tướng quân. Khi vua Trần cho triều đình và nhân dân rút khỏi kinh thành, Nguyễn Chế Nghĩa được cử giữ Nội Bàng để chống giặc, bảo vệ đại bản doanh Vạn Kiếp. Sau đó Nguyễn Chế Nghĩa được giao giữ mặt trận từ Kiêu Kỵ (Gia Lâm) đến đê Cơ Xá (Hải Dương). Ông chỉ huy trận phục kích giặc ở cánh đồng Kiêu Kỵ, giết 300 tên giặc. Khi quân ta chuẩn bị tổng phản công, Nguyễn Chế Nghĩa được lệnh của Quốc công tiết chế phối hợp với các cánh quân tiêu diệt địch ở ngoại thành Thăng Long và phục kích giặc trên sông Thiên Đức (sông Đuống) diệt hàng nghìn tên.
Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ ba (1287 - 1288), Hưng Đạo Vương phong cho Nguyễn Chế Nghĩa làm chánh tướng tiên phong đóng đồn ở Yên Hưng (Quảng Ninh). Khi biết Thoát Hoan chạy theo đường núi, ông cùng Phạm Ngũ Lão mang quân chặn giặc ở Vạn Kiếp, chém chết tướng giặc là Trương Quân ở Nội Bàng.
Giặc tan, Nguyễn Chế Nghĩa được vua Trần phong chức Đại tướng quân, cử đi trấn ải ở Lạng Sơn 6 năm. Sau ông được nhà vua triệu về triều ban tước Nghĩa Xuyên công và cử đi sứ Nguyên ba lần, được nhà vua gả công chúa Nguyệt Hoa (đây là điều hiếm gặp vào thời nhà Trần).
Nguyễn Chế Nghĩa làm quan trải bốn triều vua. Đến cuối đời Trần Minh Tông, triều đình nhiễu nhương, Nguyễn Chế Nghĩa khuyên can không được bèn từ quan về ở đất Cối Xuyên. Tại đây ông giúp dân mở mang nghề nông, mở chợ, mở lò dạy võ cho thanh niên.
Khi vua Trần Hiến Tông mất, Trần Dụ Tông lên ngôi (1341 - 1369) liền trả thù vì ông phản đối việc lên ngôi của Dụ Tông. Dụ Tông đã sai bọn võ sĩ phục kích chém chết ông ở quán Ninh Kiều, Kiêu Kỵ (Gia Lâm). Nhưng với công lao hiển hách của ông, triều đình vẫn cử Bộ Lễ về tổ chức tang lễ theo nghi thức vương giả và phong ông là An Nghĩa đại vương. Sau khi ông mất, quê hương Cối Xuyên và 84 địa phương nơi ông từng đóng quân lập miếu thờ phụng. Trong quyển "Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam" của Hà Văn Thơ và Trần Hồng Đức (phát hành năm 2001) phần ghi những nhân vật lịch sử nổi tiếng triều Trần gồm 12 người, trong đó Nguyễn Chế Nghĩa được xếp trên Lê Văn Hưu và Chu Văn An.
Nguyễn Chế Nghĩa còn được nhân dân nhiều địa phương thờ phụng,
từ Kiêu Kỵ, Gia Lâm đến làng Cuối (Gia Lộc) có hơn 80 nơi thờ cúng. Đó là những
địa phương ông từng đóng quân và đánh giặc lúc sinh thời, những nơi thi hài ông
đi qua trên đường từ Kiêu Kỵ, Gia Lâm về Cối Xuyên.
Ngày mất của ông trở thành ngày hội làng của làng Cuối và làng Kiêu Kỵ diễn ra
trong ba ngày 26, 27, 28 tháng 8 âm lịch. Trong hội làng có tục đánh thó (đánh
gậy) nhằm biểu dương tinh thần thượng võ. Kỷ niệm chiến thắng Nguyên Mông năm
2000 tại Kiếp Bạc, đội thó làng Cuối được mời tham dự với tư cách là đội thó
quê hương Nguyên Chế Nghĩa.