
|
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) là cuộc chiến dài nhất, ác liệt nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.
Trải qua 21 năm chiến đấu, Việt Nam đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, non sông thu về một mối. Chiến công ấy là “một biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc."
Để làm nên chiến thắng vĩ đại ấy là sự tổng hòa của nhiều yếu tố, trong đó yếu tố quyết định nhất là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng.
Đảng đề ra đường lối, phương pháp và hình thức đấu tranh thích hợp
Sau khi Hiệp định Geneva về lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết, trước ý đồ thay thế Pháp, xâm lược miền Nam Việt Nam của đế quốc Mỹ, tháng 7/1954, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 6, Đảng ta đã sớm xác định: kẻ thù chính của nhân dân thế giới và đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương là đế quốc Mỹ.
Sau khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng (tháng 1/1959), lực lượng ba thứ quân và hệ thống chỉ huy quân sự các cấp từng bước hình thành. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập. Các căn cứ địa cách mạng tại chỗ được khôi phục và mở rộng; đường bộ 559, đường biển 759 được hình thành và phát huy tác dụng…

|
Đến tháng 9/1960, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã hoàn chỉnh đường lối cách mạng Việt Nam. Đảng đã sớm xác định và chỉ rõ kẻ thù mới của dân tộc ta là đế quốc Mỹ và tay sai, sớm vạch ra một cách đúng đắn hai chiến lược cách mạng; khẩn trương ổn định tình hình, củng cố miền Bắc làm hậu phương vững chắc, là trung tâm lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng cả nước; vạch ra đường lối, phương pháp đấu tranh cách mạng đúng đắn, có lợi nhất, đưa đến cuộc đồng khởi vĩ đại, đánh thắng chiến lược đầu tiên của đế quốc Mỹ; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giải phóng miền Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng quốc tế. Việc xác định đường lối cách mạng độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo đã thể hiện tầm nhìn xa trông rộng, tư duy chiến lược, tài thao lược xuất sắc của Đảng.
Đảng ta cũng đã kịp thời chuyển cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam từ khởi nghĩa từng phần lên chiến tranh cách mạng; kết hợp nhuần nhuyễn giữa khởi nghĩa vũ trang với chiến tranh cách mạng; đưa cuộc chiến tranh của nhân dân ở miền Nam phát triển phù hợp với tình hình mới; đánh địch bằng cả quân sự và chính trị, bằng cả ba mũi giáp công; trên cả ba vùng chiến lược. Nhờ đó đã kìm chế và làm phá sản chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ-ngụy, buộc Mỹ phải chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ," đưa quân Mỹ và chư hầu trực tiếp xâm lược, tham chiến ở miền Nam, đồng thời dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc hòng ngăn cản sự chi viện từ Bắc vào Nam.

|
Vạch rõ nhiệm vụ chiến lược của hai miền Nam-BắcTừ tháng 7/1954, Đảng ta đã xác định phải xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa cách mạng của cả nước. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (tháng 3/1955), nhiệm vụ của hai miền được xác định rõ hơn: "Miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà; miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp trong việc đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai để giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân."
Tiếp theo đó, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (tháng 12/1957), Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Trong đó, nhiệm vụ củng cố miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội (chủ nghĩa xã hội) có tính chất quyết định thắng lợi của cách mạng trong giai đoạn mới; lực lượng cách mạng miền Nam cần tiếp tục duy trì và phát triển. Đảng ta coi đó là nhân tố trực tiếp quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

|
|
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960), vị trí của cách mạng mỗi miền được Đảng ta tiếp tục khẳng định tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự nghiệp phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Còn đồng bào ta ở miền Nam có nhiệm vụ trực tiếp đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng để giải phóng miền Nam. Đồng thời cũng là "theo yêu cầu của cả nước, góp phần bảo vệ miền Bắc và tạo điều kiện thuận lợi cho miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội."
Thực tế đã chứng minh, sự gắn bó của cách mạng hai miền đã tạo nên sức mạnh vô địch trên toàn đất nước. Miền Bắc đã dốc vào chiến tranh giữ nước và cứu nước toàn bộ sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa và hoàn thành một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa cách mạng của cả nước. Còn nhân dân miền Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thể hiện vai trò quyết định trực tiếp trong việc đánh đổ đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện sáng tạo đường lối cách mạng của Đảng trong cuộc chiến đấu kiên cường, dẻo dai, vượt qua mọi thử thách ác liệt, sáng tạo ra nhiều cách đánh đầy uy lực như đồng khởi, vành đai diệt Mỹ, đánh địch bằng hai chân, ba mũi, ba vùng... xứng đáng là thành đồng của Tổ quốc.
Dự kiến chính xác tình hình
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã dự kiến sớm và đúng xu thế diễn biến của chiến tranh nên đã đề ra các chủ trương đối phó đúng đắn, chủ động và sáng tạo.
Khi chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đi đến thất bại, Đảng ta đã dự kiến địch có thể leo thang lên nấc cao hơn và có thể đánh ra miền Bắc. Lúc Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam, Đảng ta đã đánh giá đúng so sánh lực lượng địch-ta; kiên định quyết tâm đánh Mỹ; đã chủ động kết hợp tốt phản công với tấn công.
Tại các hội nghị của Bộ Chính trị, của Trung ương Đảng năm 1967, đầu năm 1968, Đảng ta vạch rõ cần phải tạo ra một chuyển biến lớn về tình hình có lợi cho ta giữa lúc Mỹ đang ở thế ngập ngừng về chiến lược, giới cầm quyền Mỹ đang hoang mang, dao động, phải tạo được một bước ngoặt lớn của chiến tranh, dùng cách đánh mới, giáng một đòn bất ngờ thật mạnh vào ý chí xâm lược của Mỹ.
Với những phán đoán đúng và dự kiến sớm, ta đã chuẩn bị tốt và đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai trên miền Bắc, nổi bật là đánh thắng cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B-52 của Mỹ trên bầu trời Thủ đô Hà Nội (tháng 12/1972), buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris, rút hết quân ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Đảng ta đã lựa chọn hướng tiến công không phải là rừng núi và nông thôn mà là đô thị, trọng điểm là Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế, nơi địch sơ hở… Đồng thời dự kiến các khả năng và quyết định Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Điều này thể hiện rõ tư duy quyết đoán, sáng tạo và cách đánh mới rất bất ngờ, đầy hiệu lực của Đảng ta. Nhờ đó đã buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, ngày 1/11/1968, đế quốc Mỹ phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom và đánh phá (lần thứ nhất) trên toàn bộ miền Bắc, đánh dấu sự phá sản hoàn toàn của chiến lược “chiến tranh cục bộ."

|
Đảng ta cũng đã dự kiến trước khả năng Mỹ có thể đánh bom, bắn phá trở lại miền Bắc, mở rộng chiến tranh sang Lào, Campuchia để gây sức ép với ta. Đồng thời thấy rõ những điểm yếu của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh," Đảng ta đã tìm ra phương hướng chiến lược "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào."
Với những phán đoán đúng và dự kiến sớm, ta đã chuẩn bị tốt và đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai trên miền Bắc, nổi bật là đánh thắng cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B-52 của Mỹ trên bầu trời Thủ đô Hà Nội (tháng 12/1972), buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris, rút hết quân ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Nắm bắt thời cơ
Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (họp đợt 1 từ ngày 19/6 đến 6/7; đợt hai từ ngày 1 đến 4/10/1973) đã phân tích sâu sắc diễn biến tình hình trên chiến trường, trong nước, trong khu vực và trên thế giới có liên quan đến cuộc chiến tranh ở Việt Nam; chỉ rõ âm mưu, hành động chống phá Hiệp định Paris ngày càng trắng trợn của Mỹ-ngụy
 |
Từ giữa năm 1974, nguồn viện trợ kinh tế, quân sự từ Mỹ ngày càng bị cắt giảm, làm cho chính quyền và quân đội ngụy Sài Gòn lâm vào cuộc khủng hoảng ngày càng trầm trọng. Nắm bắt thời cơ, Đảng ta đã chỉ đạo đẩy mạnh xây dựng lực lượng, chuẩn bị chiến trường. Các binh đoàn chiến lược được thành lập, hệ thống đường ống dẫn dầu được mở rộng; một khối lượng lớn vật chất, phương tiện chiến tranh được chuyển nhanh ra tiền tuyến.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, tháng 7/1974, Bộ Tổng Tham mưu khởi thảo kế hoạch giải phóng miền Nam. Tháng 10 và tháng 12/1974, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cùng Bộ tư lệnh miền Nam họp bàn về quyết tâm và kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976 và dự kiến: nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.

|
Nét đặc sắc, độc đáo của chiến tranh nhân dân còn được thể hiện ở chỗ đã kết hợp chặt chẽ các nhân tố "thế, lực, thời, mưu" trong từng trận đánh, từng chiến dịch một cách linh hoạt, làm cho địch không thể lường được các hướng, mũi, lực lượng và sức mạnh tiến công của ta. Đó là cơ sở để Đảng ta kiên trì thực hiện phương châm chiến lược: đánh đổ từng bộ phận quân địch, giành thắng lợi từng bước, tiến tới đánh bại hoàn toàn quân địch, giành thắng lợi cuối cùng bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.