Tại cuộc họp rà soát hoạt động phục vụ thu hoạch, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu
vải thiều năm 2025 do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy chủ trì sáng 8/5, ông Huỳnh Tấn Đạt, Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cho biết: Hiện nay, vải thiều được trồng tập trung chủ yếu tại các tỉnh miền Bắc, gồm Bắc Giang (29.700 ha), Hải Dương (8.800 ha), Hưng Yên (hơn 1.300 ha), Lạng Sơn (1.400 ha), Quảng Ninh (hơn 1.300 ha), Sơn La (315 ha) và rải rác ở một số tỉnh Tây Nguyên.
Với điều kiện thời tiết thuận lợi trong thời kỳ phân hóa mầm hoa, ra hoa, đậu quả và sinh vật gây hại được kiểm soát tốt, niên
vụ vải 2025 được đánh giá sẽ trúng mùa với sản lượng thu hoạch dự kiến 303.000 tấn (tăng khoảng 30% so với năm 2024).
Theo ông Đạt, đặc thù của cây vải là thời gian thu hoạch tương đối ngắn và khá tập trung; thông thường sẽ chia làm 2 giai đoạn: vải sớm (từ 20/5 đến 10/6), vải chính vụ (từ 10/6 đến 25/7). Chính vì vậy, các công việc chuẩn bị cho thu hoạch, chế biến và tiêu thụ phải được thực hiện từ sớm mới đảm bảo cho vụ vải đạt thắng lợi.
Cục Trồng trọt và BVTV và các đơn vị chuyên môn đã có chỉ đạo từ đầu vụ để hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh, giám sát an toàn thực phẩm (ATTP), kiểm tra tình hình sử dụng thuốc BVTV và giám sát dư lượng, kim loại nặng trên quả vải.
Về công tác quản lý mã số vùng trồng (MSVT), cơ sở đóng gói (CSĐG), hiện nay đã có 469 MSVT với tổng diện tích hơn 19.300 ha và 55 mã số CSĐG đi các thị trường Trung Quốc, Úc, Thái Lan, Nhật Bản, Hoa Kỳ được cấp cho các tỉnh Hải Dương, Bắc Giang, Hưng Yên, Đắk Lắk, Quảng Ninh. Các vùng trồng, CSĐG này đều được giảm sát thường xuyên và đã hoàn tất thủ tục đăng ký sử dụng cho niên vụ 2025, sẵn sàng xuất khẩu.
Đối với công tác chế biến, vải chủ yếu được tiêu thụ dạng quả tươi, chỉ một phần đưa vào chế biến. Công nghệ chế biến chủ yếu là sấy khô, chỉ một phần nhỏ (khoảng 3% sản lượng) được đưa vào chế biến công nghiệp (đông lạnh, nước ép, đóng hộp). Thống kê cho thấy, các cơ sở sấy khô vải hoặc một số doanh nghiệp tham gia chế biến sâu hầu hết đã sẵn sàng hoạt động cho niên vụ năm nay.
Về chuẩn bị cho công tác xử lý kiểm dịch thực vật theo yêu cầu của nước nhập khẩu: ngay từ đầu tháng 4, Cục Trồng trọt và BVTV đã chủ động làm việc với cơ quan kiểm dịch thực vật các nước để tiến hành hoàn tất hồ sơ, kiểm tra thực tế đối với các cơ sở xử lý vải tươi (gồm 3 cơ sở xử lý chiếu xạ, 3 cơ sở xử lý xông hơi khử trùng) xuất khẩu.
Đến nay, những cơ sở này đã được các nước phê duyệt cho niên vụ 2025 và sẵn sàng xử lý các lô
vải xuất khẩu sang các thị trường khó tính như Hoa Kỳ, Úc, Nhật Bản... Đặc biệt, sau một thời gian dài đàm phán, bắt đầu từ niên vụ 2025, phía Nhật Bản đã ủy quyền cho Việt Nam thực hiện giám sát xử lý với các lô hàng vải xuất khẩu sang nước này thay vì cử chuyên gia sang giám sát suốt vụ vải. Điều này đã giúp tiết kiệm không ít thời gian, kinh phí cho người trồng và xuất khẩu vải tươi.
Về kế hoạch tiêu thụ vải, dự kiến trong tổng sản lượng 303.000 tấn sẽ có khoảng 60% sản lượng tiêu thụ nội địa và khoảng 40% xuất khẩu. Các kênh tiêu thụ nội địa chính vẫn là chợ đầu mối tại các thành phố lớn, tập đoàn có hệ thống bán lẻ rộng khắp… Đối với xuất khẩu, mặc dù quả vải tươi của Việt Nam đã xuất khẩu đi hơn 20 nước trên thế giới nhưng thị trường Trung Quốc vẫn là thị trường trọng yếu, chiếm đến 90% sản lượng xuất khẩu.
Các địa phương có sản lượng lớn như Bắc Giang (165.000 tấn) và Hải Dương (60.000 tấn) đều đã ban hành kế hoạch xúc tiến thương mại với nhiều hoạt động đa dạng để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm vải tươi.
Ông Đạt cũng lưu ý các đơn vị chuyên môn và địa phương, khẩn trương hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp, HTX, nông dân… bám sát diễn biến thời tiết, tình hình sâu bệnh gây hại, nhất là đối tượng sâu đục cuống quả để có biện pháp phù hợp bảo vệ năng suất, sản lượng vải.
Bên cạnh đó, triển khai ngay các chương trình giám sát ATTP trên quả vải để đảm bảo chất lượng trước khi đưa ra thị trường. Yêu cầu các đơn vị
kiểm dịch thực vật tại cửa khẩu chủ động làm việc với cơ quan liên ngành tại cửa khẩu và cơ quan kiểm dịch nước nhập khẩu (chủ yếu là Trung Quốc) để tạo điều kiện thông quan nhanh nhất cho các lô hàng vải tươi.
Đồng thời, kết nối các doanh nghiệp với hệ thống kho lạnh quy mô lớn để hỗ trợ nông dân bảo quản vải trong lúc chưa bán được ngay hoặc huy động nguồn lực để đầu tư kho lạnh tạm thời, các điểm sơ chế lưu động nhằm giảm áp lực tiêu thụ trong giai đoạn cao điểm thu